TƯ LIỆU ĐỊA PHƯƠNG

Thạnh Phú là một huyện của tỉnh Bến Tre. Huyện có 18 đơn vị cấp xã, bao gồm 17 xã và 1 thị trấn.Huyện có diện tích 411km2, dân số là 128116 người (năm 2004). Huyện lỵ là thị trấn Thạnh Phú nằm trên quốc lộ 57, cách thị xã Bến Tre khoảng 45km về hướng đông nam. Mật độ dân số khá thấp: 312 người/km2. 17 xã khác là: Phú Khánh, Đại Điền, Tân Phong, Thới Thạnh, Quới Điền, Mỹ Hưng, Mỹ An, Hòa Lợi, Bình Thạnh, An Thạnh, An Điền, An Thuận, An Qui, An Nhơn, Giao Thạnh, Thạnh Hải, Thạnh Phong.

Lịch sử:

Ngược dòng lịch sử, thời chúa Nguyễn (1757), vùng đất Thạnh Phú thuộc tổng Tân An, châu Định Viễn, phủ Gia Định. Năm 1808, tổng Tân An thăng thành phủ Tân An, thuộc châu Định Viễn, Gia Định thành, đến năm 1823, đổi thành phủ Hoằng An, trấn Vĩnh Thanh gồm 2 huyện: Bảo An (cù lao Bảo) và Tân Minh (cù lao Minh). Năm 1867, thực dân Pháp chiếm miền Tây Nam Bộ, chúng thành lập tỉnh Bến Tre gồm 2 cù lao Bảo và Minh. Huyện Thanh Phú nằm trên cù lao Minh, gồm phần lớn đất đai huyện Duy Minh cũ. Thạnh Phú có tên trên bản đồ từ đó.

Thời Pháp thuộc, huyện Thạnh Phú gồm 2 tổng Minh Phú và Minh Trị với 11 làng, Phú Khánh, Đại Điền, Thới Thạnh, Quới Điền, Thạnh Phú, An Thạnh, An Qui, An Nhơn, Giao Thạnh và Thạnh Phong.

Trong Kháng chiến chống Pháp, năm 1948, do việc đi lại khó khăn,tỉnh Bến Tre quyết định lập thêm 3 xã Giang Hà, Phan Nhứt Tánh và Thạnh Phú 2. Năm 1951, 3 xã trên được giải thể và trở về nguyên trạng, hai xã An Qui, An Nhơn nhập lại thành xã Qui Nhơn cho đến sau ngày hiệp định Genève (20-7-1954) mới tách ra làm đôi như cũ.

Sau ngày 30-4-1975, hai xã An Nhơn và An Qui, Đại Điền và Thạnh Phú được nhập lại, nhưng chỉ trong vòng một năm thì lại tách ra. Các xã Đại Điền, Quới Điền, Thạnh Phong, do diện tích quá rộng đã được chia làm đôi để lập thêm 3 xã mới: Tân Phong, Hòa Lợi và Thạnh Hải. Xã Thạnh Phú được chia thành 3: Thạnh Phú, Mỹ Hưng và Bình Thạnh.

Trước CMT8-1945, đất đai của Thạnh Phú, đặc biệt những vùng ruộng lúa, phần lớn nằm trong tay những địa chủ như Nguyễn Duy Hinh (Phủ Kiển), Hương Liêm, Phó Hoài ở xã Đại Điền, Cai Thì ở xã An Nhơn, Ngô Quang Dung (Chủ Quới) ở xã Giao Thạnh, Ban Phan ở xã An Thạnh...

Ngày nay, toàn bộ giai cấp bóc lột đã bị truất phế, nhưng những chứng tích như nhà cửa, lăng mộ đồ sộ, nguy nga xây dựng bằng mồ hôi, nước mắt của nông dân vẫn còn đó như một biểu tượng của sự bóc lột, chiếm đoạt.

Nhân dân Thạnh Phú có truyền thống yêu nước chống xâm lược khá vẻ vang. Nhiều người dân Thạnh Phú đã có mặt trong các đội nghĩa quân chống Pháp của Bến Tre từ những ngày đầu chúng đặt chân đến vùng đất cù lao này. Mảnh đất Thạnh Phú, năm 1946 được mang vinh dự là nơi xuất phát của chuyến vượt biển đầu tiên của đoàn đại biểu Bến Tre ra miền Bắc gặp Bác Hồ và Trung ương Đảng, mở đường chi viện của Trung ương cho miền Nam. Tiểu đoàn 307 nổi tiếng là đơn vị “đánh đâu được đấy, oai hùng biết mấy” của thời 9 năm Kháng chiến chống Pháp đã làm lễ xuất quân đầu tiên trên đất Đại Điền, Thạnh Phú.

Nhà cổ Đại Điền-(huyện Thạnh Phú-Bến Tre) [Copy link]

   

 



Ngôi nhà cổ của cụ Hương Liêm cất theo hình chữ nhật, chu vi khoảng 100m, gồm tất cả 48 cột bằng gỗ lim và căm xe quí, được bố trí:8 x 6. Cột chính cao 4,5m, mỗi cột to hơn 6 gang tay (chu vi hơn 1,2m), có chạm khắc, cẩn chữ Nho, hoa văn bằng ốc xa cừ. Tất cả cột, kèo, xiên... được đục, gắn kết nhau liền lạc. Hoành phi sơn son thếp vàng với bốn chữ: hiếu, để, trung, tín. Thành vọng chạm, lọng, với những họa tiết phong cảnh, vật “tứ linh” thật sống động. Nền nhà xây dựng cũng thật đặc biệt. Nền cao 1m, viền bọc nền là những thớt đá xanh dài khoảng 2-3m, được đục và gắn kết với nhau liền mặt bao quanh hết nền nhà…

Năm 1973, khi tôi lần đầu tiên ra cố đô Huế, vào tham quan thành nội, tôi nhận ra ngôi nhà cổ của cụ Hương Liêm ở quê nhà có nét kiến trúc nghệ thuật chẳng khác nơi đây. Năm 1985, tôi tìm đến ba ngôi nhà cổ có hạng ở miền Tây, đó là Dương phủ tại Bình Thủy (Cần Thơ), Trần phủ tại thị xã Rạch Giá (Kiên Giang) và ngôi nhà cổ của Đốc phủ Hải thị xã Gò Công (Tiền Giang); tôi có một so sánh là ngôi nhà của cụ Hương Liêm được xây dựng công phu hơn cả, nhất là phần nội thất.

Lúc còn sống (cách đây 5 năm), có lần ông Huỳnh Ngọc Chất (cháu 5 đời của cụ Hương Liêm) nói với tôi: “Do chiến tranh, thời gian chồng chất, làm sao ngôi nhà không khỏi xuống cấp so với nguyên bản. Phần khác, gia đình chúng tôi, những người đang trực tiếp gìn giữ, thờ phụng ông bà ở ngôi nhà, cuộc sống luôn gặp khó khăn, thành ra..”.

Từ năm 2002, nhà cổ Đại Điền được Bộ Văn hóa – Thông tin “bật đèn xanh” lập hồ sơ để Bộ công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Giám đốc Bảo tàng Bến Tre Nguyễn Chí Hiếu cho biết: “Trước khi bắt tay vào làm hồ sơ khoa học cho nhà cổ, để giữ cho ngôi nhà bớt xuống cấp, Bảo tàng tỉnh đã cử chuyên viên đến nhà cổ phun xịt thuốc chống mối mọt. Có điều, khi bàn thảo với gia đình việc lập hồ sơ và các yêu cầu để trùng tu ngôi nhà thì có vài thành viên trong dòng tộc Huỳnh phủ chưa thống nhất nên mọi việc phải tạm dừng lại. Đến ngày 23-2-2005, đại diện Sở Văn hóa – Thông tin, Bảo tàng tỉnh, UBND huyện Thạnh Phú, UBND xã Đại Điền và đại diện dòng tộc của ngôi nhà lại gặp nhau, cùng bàn bạc và cuối cùng mới đi đến thống nhất chung trong việc lập hồ sơ khoa học để ngôi nhà được công nhận di tích”... Ông Nguyễn Chí Hiếu giải thích, muốn trùng tu ngôi nhà này phải đầu tư nhiều tỷ đồng. Vì vậy, để có thể kêu gọi một tổ chức nào đó đóng góp đầu tư thì thiết yếu nhà cổ Đại Điền phải được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia...

Đầu năm 2006, ông Hiếu cho tôi biết mọi yêu cầu của hồ sơ xem như hoàn tất, chỉ còn chờ phần vẽ chi tiết nội thất ngôi nhà. Song, từ đó đến nay đã hơn bốn năm, hồ sơ vẫn chưa hoàn tất để chuyển ra Bộ VH –TT& DL thẩm định vì phần vẽ nội thất chưa xong và cũng chưa biết đến bao giờ mới xong!

Khi cầu Hàm Luông hoàn thành, đường về huyện Thạnh Phú để đến xã Đại Điền xe sẽ bon bon một mạch, rất tiện lợi cho du khách đến tham quan, tìm hiểu ngôi nhà cổ độc đáo này - một vốn quý của ngành du lịch tỉnh nhà. Có điều, thời gian sẽ không còn kiên nhẫn nữa bởi ngôi nhà đang tiếp tục xuống cấp trầm trọng! Giữa cuộc sống đương đại, nhiều công trình kiến trúc cổ đã, đang mất dần. Cần phải bảo tồn, gìn giữ ngôi nhà cổ Đại Điền để con cháu chúng ta biết về những ngôi nhà cổ ngày xưa cùng nét tác tạo tài hoa của những người thợ cung đình trứ danh vào thế kỷ 19 là việc cần thiết phải làm.

 

Search site